Mỗi chúng ta ai mà chẳng có một quê hương. Khi bỏ nước ra đi, chúng ta mang theo trong lòng một [những]
khuôn mặt, một giọng nói, một màu áo, một tiếng rao quà … mà chúng ta
không hề ngờ tới. Chỉ khi nào trái tim ta đau buốt vì thương cảm, hoặc
nổ tung ra vì hạnh phúc ta mới chợt nhớ ra quê hương đang ở trong lòng
ta. Cũng có khi quê hương sống dậy vì một chút nắng, hay một giọt mưa,
một bãi cát [vàng] hay một con sóng biển, một mầu trời hay một
tiếng nói mang âm hưởng của vùng quê ta, … lúc đó ta biết rằng không có
chi ngăn nổi trí nhớ nóng bỏng của ta làm hiện ra những hình ảnh cũ. Bởi
vì thật bất ngờ, đôi khi chỉ thoảng một “mùi hương” cũng đủ khơi dậy trong ta biết bao kỷ niệm quê hương.
Đối với tôi, thời tiết giá buốt những ngày cuối đông đầu xuân ở
California gợi lại trong tôi biết bao điều về thành phố quê hương, nơi
đã nhìn tôi lớn lên, đã thêu dệt trong tôi biết bao mộng ảo, đã đày đọa
tôi tới chín tầng địa ngục.
Nha trang, đó là một thành phố của tình yêu và chia biệt, thành phố
của những mối tình mùa hè, của những con sóng biển vô tình, những con dã
tràng trên cát, những dấu chân bị nước cuốn đi không để lại một vết
tích nào như thể trước đó nó không hề tồn tại …
2.
Tôi là người có hai quê: cha tôi ở bên Thành, mẹ tôi ở N.H. Nhatrang
nằm ở giữa. Đường đi lên Thành-Citadelle gần, nhưng đường từ Nha trang đi
N.H. xa hơn, cách nhau tới hai ngọn đèo, đèo Rù Rì và đèo Rọ Tượng. Mẹ
tôi người Minh Hương. Và N.H. có thể nói là thị trấn của những người
Minh Hương. Tính chất Minh Hương ấy hiện lên rất rõ trong những ngày lễ
lạc. Cả một thị trấn chiếm một khúc ngắn trên quốc lộ Một và tỉnh lộ Hai
Mươi Mốt này gặp ngày lễ lớn người ta thấy bay rợp trời những lá cờ
Trung Hoa, họa hoằn lắm mới thấy một vài lá cờ Việt Nam . Và ngay cả
những người dân sống trên con lộ chính này cũng là những người Hoa. Bà
dì tôi đúng là một người Hoa, Hoa một trăm phần trăm, Hoa từ mái tóc
ngắn kiểu “bôm bê” đến giọng nói, từ cách sống đến lối nghĩ, từ
quần áo của bà mặc đến lối trang trí nhà cửa … Thế nhưng mẹ tôi, lạ
thay không có chút mảy may Tàu. Trái lại bà có cái vẻ bề ngoài của một
phụ nữ tây phương hơn là một người Á đông. Chỉ có y phục, cách ăn uống,
cách dạy con, sự xuề xòa, giọng nói của bà là Việt Nam mà thôi. Bà giống
một phụ nữ Việt nghèo khổ hơn là một người Hoa giàu có. [Những người Hoa trong thị trấn nhỏ này chỉ có người giàu chớ không có người nghèo].
Nhưng thời gian tôi ở với mẹ và cha tôi ít hơn là thời gian tôi ở với
chú thiếm tôi ở thành phố Nha trang. Và làng Quang Thạnh, quê của cha
tôi, nơi tôi còn có những thân thích ruột thịt khác, những ông chú hiền
lành, những ông bác khó tính, những bà cô khắc nghiệt, những người anh
em họ hàng cùng lứa tuổi tôi gần gũi một cách nhạt nhẽo,… Tôi là một
người khách lạ trong ngôi nhà trọ.
Cô Tám tôi, tên Hương là một người đàn bà khắc nghiệt. Bà có một hàm
răng rất trắng, rất nhỏ và rất khít. Bà không ăn trầu như những người
phụ nữ cùng thời với bà. Cô có một ngôi nhà lớn năm gian, đầy những bàn
ghế tủ trang thờ bằng gỗ cẩn xà cừ, sạch sẽ như lau như ly, với một vườn
cây ăn trái rộng như một khu rừng. Bà có hai người con gái, nhưng mỗi
lần gặp tôi bao giờ bà cũng bảo “mày có muốn về ở với cô không?”.
Tôi thưa với bà là tôi không hề muốn ở với bà, và tôi cũng chưa hề có ý
định sống dưới một mái nhà với bà. Tại sao, tôi không biết. Mặc dù cô
có hai người con, tôi có cảm tưởng như cô tôi không chồng, bởi vì tôi
cũng không bao giờ nhìn thấy bóng ông Dượng tôi, và tôi cũng chẳng bao
giờ nghe bà nói về ông Dượng của tôi. Tôi muốn biết tại sao nhưng không
bao giờ dám hỏi. Cô tôi thường nói: “Tao muốn một đứa con trai cho nó ấm nhà ấm cửa. Mày có muốn làm con tao không?” Và tôi nhớ câu trả lời dứt khoát của tôi lúc đó là “Không!” “Tại sao?”
Tôi không biết trả lời cô tại sao, nhưng tôi biết là tôi rất không
thích cô. Hình ảnh của cô còn trong trí nhớ tôi đó là một phụ nữ nhỏ
thó, ăn mặc rất sạch sẽ gọn gàng, da dẻ hồng hào và “ưa kiện tụng”.
Gần như suốt đời cô là một chuỗi tháng năm lên toà xuống huyện. Hai
người con gái của cô, mà tôi gọi là em, là những đứa bé gái xinh đẹp dễ
thương. Sau này lớn lên, đôi khi tình cờ gặp lại hai cô em tôi, hai
thiếu nữ duyên dáng, lạnh lùng, nhìn tôi như nhìn một người xa lạ.
Gần như cả ngôi làng đó chỉ gồm toàn những người trong dòng họ nhà tôi. Cái bánh xe nước trong phim “Chúng Tôi Muốn Sống” do Lê Quỳnh đóng với Mai Trâm và Thu Trang thuộc vùng đất nhà từ đường phía cha tôi.
Tôi không ở với cha tôi, mà cũng không ở với mẹ tôi. Tôi xa gia đình
từ nhỏ. Tôi ở nhà chú tôi vì cha tôi muốn tôi ở nhà quê, và vì mẹ tôi
muốn tôi “phải đi học”. Chú tôi làm việc ở toà tỉnh Nhatrang,
lúc đầu nhà ở đường Hoàng Tử Cảnh, sau dọn về đường Yersin. Ông chỉ là
một công chức thường, lương ba cọc ba đồng, còn thiếm tôi thì vì sức
khoẻ kém, gần như chỉ suốt ngày quanh quẩn trong nhà lo cho đàn con. Vậy
mà chú thiếm tôi phải nuôi thêm một miệng ăn ngoài một đàn con gần mười
đứa, không một lời than văn. Chú thiếm tôi rất thương tôi, những đứa em
tôi, con của chú thiếm tôi, cũng tử tế với tôi như một người anh ruột.
Nhưng tôi sớm nhận ra mình chỉ là một đứa bé lạc loài, một kẻ ăn nhờ ở
đậu, một miệng ăn gây nhiều khó khăn cho một gia đình đông đúc. Và thế
đó mà tôi lớn lên, lớn lên trong một đời sống tâm hồn khốn khổ, giữa một
thành phố thơ mộng và đẹp đẽ là Nha trang. Tôi không ở lâu trong một
ngôi nhà nào. Mỗi nhà chứa tôi trong một thời gian ngắn. Tôi là đứa bé
báo cơm, một cậu học trò thiếu sách vở, một thằng nhóc lẫn vào những đứa
trẻ bụi đời… Ở lớp học ra, tôi không biết về đâu. Ngọn đèn buổi tối
vàng om không chiếu sáng những trang chữ. Những bữa cơm nuốt trong vội
vã, đôi đuã không biết thế nào là cá và thịt. Đêm luôn luôn dài hơn
ngày. Bóng tối bao giờ cũng nhiều hơn ánh sáng.. Mọi người cười cười nói
nói với tôi, nhưng mỗi câu nói cho tôi biết tôi là gánh nặng của gia
đình nơi tôi ở trọ. Ai cũng nói “con ở đây, cứ tự nhiên như nhà của con”, nhưng người nghe đủ thông minh để nhận ra “con là gánh nặng mà ta không bỏ xuống được…”
Những cuốn sách mượn của bạn, những tập vở xin của một thầy giáo, những
cây bút nhặt được từ một đống rác… và…. Tôi hiểu vì sao tôi yêu những
khóm dương trên biển hơn ngôi nhà, yêu bãi cát trên biển hơn chiếc
giường tôi nằm chung với một đứa khác mỗi đêm…
3.
Nhatrang, thành phố của biển xanh, và cát trắng, của rừng dương, rừng
dừa, của Hòn Chồng, Cầu Đá, của cầu Hà Ra, Xóm Bống, của Tháp Bà, của
Lương Sơn, Đồng Đế, …Nhatrang, thành phố ấy bao giờ cũng dính chặt vào
trí nhớ tôi.
Ngôi trường tiểu học là thiên đường của tuổi thơ, nơi đã cho tôi
những tình bạn trong sáng mà giờ đây khi hồi tưởng lại tôi vẫn thấy ấm
áp cả trái tim. Những Đoàn Lân, Lê Văn Quyền, Tôn Thất Lưu, Trần Lâm
Cao, và Hà Thúc Nhơn, Duy Năng, Trần Ngọc Bích, Dương Hồng Ngọc, Trương
Hồng Sơn, Nguyễn Đức Sơn, Huỳnh Tấn…những người bạn gái như Bích Ngô,
Bích Hường, Hoàng Thị Ngọc Táo, Minh Nguyệt, …những ông anh bà chị như
Như Phú, Tuý Hoa, Dạ Khê, Nguyễn Hữu Trí, …những đứa em Hoàng Bắc, Ngọc
Trúc, Liên Châu, Chúc, …và cả những người “yêu” Odette, Bạch
Mai, Bích nếu tôi được phép gọi như thế. Những bạn ấy có người vẫn còn ở
thành phố này nơi tôi đang sống, cũng có người đang ở những tiểu bang
khác, những quốc gia khác…. Có người còn sống có người đã chết, nhưng dù
đang có mặt tại đây nơi xứ lạ quê người, hay vẫn còn ở quê nhà bao giờ
gặp lại hay nhắc đến cũng đều gợi lại trong tôi những tình cảm tốt đẹp,
trong sáng, và thơ dại, như thể chỉ có trong những chuyện cổ tích hơn là
ngoài đời.
Nhatrang, tên gọi đó với tôi không phải chỉ một thành phố, đó là một
gia đình. Không phải gia đình được định nghĩa là một tổ ấm gồm cha mẹ
con cái và anh em. Gia đình tôi trong những ngày cắp sách đến trường là
những ngôi nhà luôn luôn thay đổi. Có khi là nhà bà Dì trên Xóm Mã Lạng;
có khi là nhà bà Cô ở Rạch Rau Muống. Có khi là nhà ông Chú ở Hoàng Tử
Cảnh. Nếu những bữa cơm gia đình tôi đói tình thương thì chính những giờ
học làm tôi no nê kiến thức và tình cảm. Những ông thầy bà cô tôi là
những khuôn mẫu đẹp đẽ không bao giờ phai trong trí nhớ tôi. Cả một
thành phố Nhatrang là gia đình tôi. Lớp học, bãi biển, rừng dương, bầu
trời, ngọn gió, tình bạn,…. Đó mới chính là gia đình tôi…
4.
Nhatrang, thành phố đó đã dạy cho tôi bài học đầu tiên về lòng nhân
ái. Ông chú bà thiếm tôi là những người nhân ái như thế. Những người con
của chú thiếm tôi cũng là những người nhân ái như thế. Nhưng tôi giống
như một con vật bị săn đuổi vì thiếu cha, thiếu mẹ, chui rúc vào những
hang động của tuổi thơ. Bãi biển đẹp nhất trên thế giới là nơi tôi tìm
đến những ngày trốn học. Núp dưới bóng những gốc cây dừa, nằm giữa lùm
cây trong rừng dương, hay ẩn mình trong hốc đá Hòn Chồng, tôi khám phá
ra đời sống là một chuỗi những hạnh phúc và đớn đau, hay những đớn
đau-hạnh phúc. Tôi thấy sự cô đơn trong đám đông và thấy cả nỗi ấm áp
tình người trong sự cô độc. Tôi không phải là học sinh giỏi. Tôi càng
không phải là một học sinh thông minh. Tôi chỉ là một đứa bé thấy thích
thứ gì thì cố mà đi tìm hiểu cho ra thứ đó. Thủa đó tôi không tìm ra chữ
nào phù hợp với suy nghĩ của tôi, nhưng gần đây tôi giật mình đọc được
tựa đề một cuốn truyện dịch từ tác phẩm của Colleen McCullogh, The Thorn
Birds, mà tôi rất “thích“: Tôi là một trong “Những con chim ẩn mình chờ chết”.
Tôi vẫn còn nhớ những ông thầy bà cô của tôi, những người đầu tiên
dạy tôi đọc chữ, những người dạy tôi cách hiểu nghĩa và nhắc đến
Nhatrang là nhắc đến một thành phố với lòng biết ơn của những đứa con.
Thầy Cung Giũ Nguyên dạy tôi lòng yêu văn chương, thầy Điểm hội hoạ dạy
tôi lòng yêu mầu sắc, thầy Dưỡng dạy tôi thế nào là âm nhạc, …Biển
Nhatrang dạy tôi thế nào là vẻ đẹp và sự tàn bạo của thiên nhiên. Nó
cũng dạy cho tôi sự nhỏ bé của con người trước sự vĩ đại của trời đất.
Biển Nhatrang là một cuốn sách mà tôi sẽ đọc hoài trong suốt cuộc đời
tôi. Ðọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung tôi thích nhất là câu “ngoài trời còn có trời”, tôi nhìn ra “ngoài biển còn có biển.”
5.
Tôi xa Nha trang đã lâu. Lâu lắm. Tôi đã đi nhiều nơi, nhiều thành
phố, nhiều nước. Tôi đã gặp gỡ nhiều người. Những người thông minh, khôn
ngoan, đẹp đẽ, giàu có, sang trọng. Những người nghèo khó, vô gia cư,
vô nghề nghiệp. Những người tha phương cầu thực. Tôi đã sống với họ, đã
chia xẻ nỗi đau với họ. Tôi khám phá ra hình như tôi gần gũi hơn với
những ngưòi cùng khổ. Tôi cũng là nạn nhân của bọn người hãnh tiến, bọn
ăn xổi ở thì. Nhưng thật ra, họ giàu hay họ nghèo, họ có chức tước danh
vọng hay họ chỉ là những người thường dân vô danh …bao giờ tôi cũng yêu
thương họ. Yêu thương những con người bị đọa đày và tội nghiệp cho sự
hãnh tiến của những kẻ số đỏ. Yêu thương sự chân thật lòng nhân ái của
người này, và tha thứ những dối trá lọc lừa của người kia. Yêu thương cả
những người trưóc đây từng chà đạp lên nỗi đau khổ của tôi. Cũng như
tôi đã từng yêu thương những lằn roi xé thịt của cha tôi nhiều lần giáng
xuống thân thể run rẩy của tôi, yêu thương những giọt nước mắt của mẹ
tôi từng khóc vì tôi làm mẹ khổ.
Chính thành phố Nha trang với biển khơi mênh mông của nó, rừng dương
xanh đầy gai góc của nó, …đã trở lại với tôi. Nha trang ở trong trái tim
tôi. Nó nhắc tôi nhìn ra sự phù du và phù phiếm, nó chỉ cho tôi “ngoài trời có trời”, “ngoài biển có biển”.
Chiều nay, tôi đi một mình đến Huntington Beach, một chút biển ở Cali
để tìm ra một chút biển Nhatrang. Trên chiếc cầu bắc cao trên bờ cát một
buổi tối tôi đã nhìn thấy biển đêm, nhìn thấy quê hương tôi mờ mịt. Tôi
quên mất quá khứ, tôi không có tương lai. Và hiện tại? Tôi là “con chim ẩn mình chờ chết”…
Nguyễn Xuân Hoàng
No comments:
Post a Comment