Phong trào Thanh Niên Tiền Phong đã phát triển rất nhanh chóng ở hầu như
khắp các tỉnh. Ở Sài Gòn, Chợ Lớn các công sở cũng như các hãng tư lớn
nhỏ đều có bộ phận TNTP và các thủ lãnh để trông coi, nhất là ở các xí
nghiệp. Ở các tỉnh và quận, làng, TNTP cũng được tổ chức nhưng các thủ
lãnh thường được gọi là Trưởng Thanh niên, Tráng trưởng, Thiếu trưởng...
TNTP được thành hình với đồng phục, cách chào kính na ná giống như tổ
chức Hướng đạo nhưng TNTP không có các hoạt động như thể thao, cắm trại,
du ngoạn... Ðây là một đoàn thể được thành lập để đáp ứng lòng hăng hái
của tuổi trẻ muốn tham gia vào sinh hoạt quốc gia đang chuyển mình qua
giai đoạn độc lập. Việc thu hút giới thanh niên đã diễn ra rất phấn
khởi, không có vấn đề đảng phái, tôn giáo, thành phần giai cấp... Lời
Hiệu triệu đã được thanh niên miền Nam hưởng ứng nồng nhiệt với ba câu :
“Các bạn chỉ có một đẳng cấp: Ðẳng cấp của Thanh niên.
Các bạn chỉ có một nhiệm vụ: Nhiệm vụ của Thanh niên.
Các bạn chỉ có một mục đích: Giải phóng Dân tộc”
Những lời kêu gọi kích thích như vậy trước kia đã chưa từng được công
khai phổ biến vì Việt Nam đang còn bị Pháp chiếm ngự. Khẩu hiệu: “Cải tổ
xã hội, nâng cao đời sống đồng bào” nay là câu được nhắc thường trực
trong các buổi hội.
Công việc cấp thời lúc bấy giờ là giúp thu dọn, xây cất lại các khu bị
dội bom, nhất là các xóm nhà lá. Dân chúng thành phố Sài Gòn đã hoan hô
nhiệt liệt việc đào xới các nơi bị sụp đổ, cấp cứu các nạn nhân bị vùi
lấp, an táng các tử thi... Ở Bắc lại khởi đầu có nạn đói hoành hành.
Việc chuyên chở gạo tiếp tế cho Trung, Bắc đã bị ngưng trệ vì đường xe
lửa Sài Gòn-Hà Nội bị máy bay Ðồng minh oanh tạc hằng ngày. TNTP đã tình
nguyện chất gạo lên xe lửa di chuyển ban đêm. Ban ngày lại phải chất
giấu cho đến tối. Việc chuyên chở gạo ra Bắc bằng ghe theo đường biển
tuy chậm chạp nhưng cũng đã được thực hiện trong muôn vàn khó khăn.
Ngày 15 tháng 4, 1945 một Ðại hội Thanh niên đã được tổ chức ở sân Vận
động Chợ Lớn. Lần đầu tiên dân chúng đã thấy được các thanh thiếu niên
diễn hành, hàng ngũ ngay ngắn, đi đứng nhịp nhàng. Các đội thiếu nhi 7, 8
tuổi đã được nhiệt liệt hoan hô. Các cuộc tập họp thanh niên càng ngày
càng lôi cuốn giới trẻ tham gia hoạt động cộng đồng.
Ngày 11 tháng 6 một Lễ Hưng quốc Khánh niệm đã được cử hành với một bàn
thờ Tổ Quốc thiết lập trang nghiêm ngoài trời. Ba thiếu nữ trang sức
theo lối ăn mặc ba miền Bắc, Trung, Nam được kết chung bằng một giải lụa
trắng tượng trưng đất nước thống nhất, ôm hoa đứng trước bàn thờ là một
hình ảnh gây nhiều xúc cảm trong những người tham dự lễ.
Trong tình huống cần nung đúc ý chí thanh niên, một cuộc tuyên thệ của
TNTP đã được chuẩn bị ra mắt ngày 1 tháng 7 ở sân vận động Vườn Ông
Thượng. Ðây là một cuộc biểu dương lực lượng chưa từng thấy ở miền Nam
của giới trẻ quyết tâm chứng tỏ ý chí cương quyết sẵn sàng phụng sự Tổ
Quốc.
Hơn ba ngàn dân chúng và các nhân vật tai mắt thời bấy giờ như Thống đốc
Minoda, Tổng Ủy viên Thanh niên Iida, thân hào nhân sĩ Việt, Nhật đã
đến chứng kiến lễ tuyên thệ. Lễ chào Quốc kỳ mới, có hình quẻ Ly và bài
Thanh niên Hành khúc đã làm xúc động nhiều dân chúng.
Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đã đọc một diễn văn khêu gợi ý chí thanh niên. Lễ
tuyên thệ với sự hiện diện của các Huynh trưởng Nguyễn Văn Thủ, Kha
Vạng Cân, Huỳnh Văn Tiểng, Kiều Công Cung đã được tiến hành rất cảm động
với các lời hô to: “Chúng tôi thề” của TNTP, sau khi các Thủ lãnh dõng
dạc đọc xong từng lời thệ nguyện. Cuộc diễn hành kết thúc buổi lễ đã ghi
sâu vào tâm não những người đã có được dịp chứng kiến sự hàng ngũ hóa
thanh niên vừa thoát vòng nô lệ thực dân.
Một lễ tuyên thệ tiếp sau đó cũng đã được long trọng tổ chức vào ngày 19
tháng 8 do bà Bác sĩ Nguyễn Ngọc Sương, Thủ lãnh Phụ Nữ Tiền Phong.
Hằng ngàn phụ nữ với đồng phục nón rơm, áo sơ mi trắng ngắn tay, quần
dài đen, đã dõng dạc đưa tay hô: “Chúng tôi thề” sau khi bà bác sĩ Sương
tuyên đọc các lời nguyền. Buổi lễ đã được long trọng diễn tiến trong
cơn mưa. Thật không ai có thể ngờ đó là buổi tập hợp cuối cùng của Phụ
Nữ Tiền Phong tại sân vận động Vườn Ông Thượng. Bà Nguyễn Ngọc Sương, y
khoa bác sĩ tốt nghiệp từ Pháp, và chồng là luật sư Hồ Vĩnh Ký, khoảng
một tháng sau ngày mở màn Nam bộ Kháng chiến, đã bị bộ hạ của Trần Văn
Giàu xử bắn ở Bến Súc cùng nhiều đồng chí khác, ngày 23 tháng 10-1945,
khi quân đội Anh-Ấn tiến chiếm Thủ Dầu Một. Những người bị Trần Văn Giàu
bắt ở Thủ Ðức trong đó có Trần Văn Thạch (người đã hỏi Trần Văn Giàu
trong buổi họp có báo chí tham dự ngày 30 tháng 8-1945, năm ngày sau khi
Lâm ủy Hành chánh ra mắt: “Ai đã cử anh làm Chủ tịch Ủy Ban Hành
Pháp?”), tất cả đã bị bọn cai ngục được lịnh phải thủ tiêu. Bà bác sĩ
Nguyễn Ngọc Sương đã bảo người cầm súng: “Hãy nhắm đúng tim tôi mà bắn”.
Những cuộc tuyên thệ trọng thể cũng đã được tổ chức ở Cần Thơ, Mỹ Tho và nhiều tỉnh khác.
Phan Anh, Bộ trưởng Thanh niên của Nội các Trần Trọng Kim đã trình vua
Bảo Ðại biết về lực lượng thanh niên ở Nam Kỳ. Ngày 3 tháng 7-1945, hơn
30 thanh niên trường Huấn luyện TNTP đã được đưa đến trình diện vua Bảo
Ðại. Phạm Ngọc Thạch đã được Bảo Ðại chuẩn cho chức Xứ trưởng Thanh
niên, đại diện cho Phan Anh ở Nam Kỳ.
Một số TNTP ở Sài Gòn cũng như các tỉnh bắt đầu tự trang bị thêm dao găm
dắt bên hông. Số TNTP càng ngày càng tăng, dao găm trở nên rất khó
kiếm. Chú Sáu của Triệu tình nguyện về tỉnh nhờ các lò rèn địa phương
sản xuất giúp. Thế là Triệu lại có dịp trở về Sa Ðéc và được đi thăm
nhiều làng xa trong tỉnh. Một hôm Triệu đến viếng cụ Cử Võ Hoành. Cụ cho
hay phải ở lại tham dự buổi lễ ra mắt của hội Truyền Bá Quốc Ngữ địa
phương. Ðồng thời cụ cũng bảo phải đi nghe ông Huỳnh Phú Sổ thuyết giảng
và khuyến nông vì ở Bắc và Trung hiện có nạn đói trầm trọng. Ðây là dịp
đầu tiên Triệu có cơ hội gặp vị Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo.
Khi Triệu đến chợ Sa Ðéc thì đã thấy rất đông dân chúng vây quanh ông
Huỳnh Phú Sổ, một người dáng trông thanh lịch, rất trẻ, tóc để dài ngang
vai, có cặp mắt rất sáng. Ông nói năng giọng sang sảng nhưng chậm rãi,
cử chỉ từ tốn. Ðồng bào càng lúc càng đến đông nhưng rất im lặng, trật
tự. Vài người nói nhỏ với nhau:
“ Thiên hạ nay đến nghe Ðức Thầy rất đông. Lúc trước còn Tây ở đây, lính kín đến nghe Thầy còn đông hơn dân chúng”.
Bài Khuyến Nông của Ông đã thật tình giúp người nông dân mộc mạc, khiêm
tốn, nay hãnh diện ý thức được vai trò của mình và lo lắng cho đồng bào
ruột thịt tận miền Trung, Bắc:
“Hỡi đồng bào! Hỡi đồng bào!
Thần chết đã tràn vào Trung Bắc...
.....................................
Kẻ phu tá cũng là trọng trách,
Cứu giống nòi quét sạch non sông
Một mai vác cuốc ra đồng
Thề rằng ruộng phải được trồng lúa khoai
.....................................
Nam Kỳ đâu phải sống riêng,
Mà còn cung cấp cho miền Bắc Trung
.....................................
Miễn sao cho cánh đồng Nam
Dồi dào lúa chín gặt đem về nhà
Chừng ấy mới hát ca vui vẻ
Ai còn khinh là kẻ dân ngu”
Buổi thuyết giảng mở đầu bằng “Khuyến Nông” sau đó đã được ông Huỳnh Phú
Sổ chuyển qua dạy về Tứ Ân của Phật giáo Hòa Hảo: Ân Tổ tiên Cha mẹ, Ân
Ðất nước, Ân Tam Bảo, Ân Ðồng bào Nhân loại. Ông nhắc cho tín đồ cách
tu giản dị: chỉ cần một bàn Thông Thiên ngoài trời, bàn thờ Phật và bàn
thờ Ông Bà trong nhà nhưng không tượng Phật, chỉ cúng nước lã, bông hoa
và đèn hương. Có nhang thì đốt, không có thì nguyện không. Phật giáo Hòa
Hảo không chủ trương cất chùa, đúc tượng Phật, không dùng chuông mõ.
“Nên dùng tiền cứu người nghèo khổ, thay vì cất chùa to, đúc tượng lớn”.
Ông Huỳnh Phú Sổ đã phổ biến giáo lý Phật giáo với những lời thơ bình
dân, dễ hiểu, dễ nhớ. Suốt buổi giảng Ông không dùng ngôn ngữ cầu kỳ,
những ý nghĩ trừu tượng. Sấm giảng, thi văn của Ông phù hợp với trình độ
đại chúng nông thôn và đáp ứng được tâm lý quần chúng vốn không thể
lãnh hội được thiên kinh, vạn quyển của giáo lý Phật giáo.
Buổi đầu tiên được nghe Huỳợnh Giáo chủ thuyết giảng, ấn tượng một người
trẻ nhưng phi thường đã ám ảnh Triệu suốt nhiều năm tháng và Triệu đã
có ý định cần phải tìm hiểu về chủ trương Phật giáo Dân tộc này. Sau khi
phong trào Nam Kỳ Khởi Nghĩa thất bại, thành phần nông dân là bộ phận
bị chánh quyền thực dân đàn áp hung bạo nhất. Ý chí tập hợp đấu tranh
người dân quê tưởng chừng như đã bị tan rã. Thế mà dân chúng nông thôn
vùng đồng bằng sông Cửu lại đã đáp ứng nồng nhiệt và gia nhập Phật giáo
Hòa Hảo của ông Huỳnh Phú Sổ. Việc ấy chắc hẳn phải có lý do cần được
tìm hiểu sâu rộng hơn. Vào buổi chiều hôm đó, Triệu còn được chứng kiến
đêm văn nghệ ra mắt của hội Truyền Bá Quốc Ngữ. Những bài tân nhạc Việt
đã được trình diễn lần đầu tiên cho dân chúng tỉnh nhỏ. Họ chưa từng có
dịp nghe các khúc nhạc của Lưu Hữu Phước, Ðặng Thế Phong, Dương Thiệu
Tước... Việc nô nức của giới trẻ quyết tâm tham gia vào việc tình nguyện
phổ biến chữ quốc ngữ cho dân chúng khiến Triệu nhớ lại những buổi đầu
đi dạy ở xóm nhà lá Khánh Hội. Nhớ gương mặt sáng rỡ trong ánh đèn dầu
của anh chị em lao động, những người buôn gánh bán bưng khi học bài đầu
tiên: “I, Tờ giống móc cả hai, I ngắn có chấm, Tờ dài có ngang” và được
nghe họ vui mừng thốt lên: “Trời ơi! chữ mình dễ ợt như vậy hà? Hồi
trước tới giờ có ai dạy đâu mà học!”. Triệu đã thật sự cảm động đến rớt
nước mắắt, thấy mình đã làm được chút việc giúp ích cho dân chúng!
Trong những chuyến đi cùng chú Sáu, thăm các lò rèn địa phương và phổ
biến tin Pháp đã bị lật đổ cho dân chúng thôn quê, Triệu đã có dịp đi về
các nơi hẻo lánh ven Ðồng Tháp Mười. Nơi đây Triệu đã được thấy tình
người nông dân đối với những cặp trâu cùng chung lo việc đồng áng với
họ. Những chiếc mùng thật to đã được may bằng vải ta để trâu không bị
muỗi cắn về đêm. Mỗi nhà thường có treo một cái trống to để liên lạc với
những nhà khác, thường ở cách nhau rất xa. Việc này thật giống như
Triệu đã được xem trong phim nói về các bộ lạc ở Phi châu, dùng tiếng
trống để báo tin với nhau. Người dân quê tuy sống một đời đạm bạc nhưng
đồng ruộng miền Nam đã giúp họ có một cuộc sống không đến nỗi thiếu thốn
như các vùng khác của đất nước, như Triệu sẽ được nhận thức về sau này.
Cá tôm không thiếu trong sông rạch, chỉ cần đào ụ và chận ụ để bắt cá
khi cần. Các chim chóc như ốc cao, chằng nghịt, võ vẽ, gà nước... người
dân tuy không có ná, cung, súng ống nhưng chỉ cần tổ chức đông người,
gây tiếng động lớn để “đuổi chim”, lùa vào lưới và rọ như bắt cá dưới
sông. Có nơi lại thường dùng một cách bắt chim đặc biệt khác là đốt đuốc
nom chim về đêm. Thi sĩ Mặc Khải ở Thiềng Ðức, Vĩnh Long đã có bài
“Chim mùa lúa chín”:
Ra đồng đốt đuốc nom chim,
Rạ khô sột soạt, sao chìm bưng, ao,
Võ vẽ, chằng nghịt, ốc cao,
Lúa thơm, chim mập, thịt xào bầu non.
Chuột đồng béo bở, ướp xả ớt, chiên hoặc nướng lửa than, là một món ăn
thích thú khác của thôn quê miền Nam. Triệu có nhiều chú, bác được ông
Nội của Triệu khi về thăm quê ở Hà Tĩnh đã rủ đưa vào sống ở Cao Lãnh.
Lúc chưa vào Nam, các chú, bác của Triệu đã phê bình các món ăn như rắn,
chuột đồng và bảo: “Ở trong đó ăn những gì mà gớm ghiếc thế”. Nhưng sau
khi được vào sinh sống trong Nam rồi, các chú lại là những người mê các
món ăn đó nhất!
Ði vào các kinh, rạch vào trưa nắng hay các buổi chiều, trong cảnh vắng
lặng, Triệu đã có dịp được thấy những sinh động của từng đoàn cá di
chuyển giữa dòng nước trong vắt của kinh lạch, những con rắn nước chờ
mồi, rùa, cua đinh thong thả bơi như vô tư lự... Hai bên bờ kinh những
con chim nhỏ tỉ mỉ tước lá làm ổ kêu nhau chíu chít, những đàn cò im
lặng đứng rình cá... Những người sống ở phố phường nhộn nhịp, những
người từng hay đọc sách các văn sĩ miền Bắc mô tả những núi đồi, nông
trại, thường chê miền Nam phong cảnh không có gì hấp dẫn, toàn một vùng
thẳng tắp, nhiều lắm chỉ có chút tô điểm với những đàn cò trắng bay lượn
xa xa... Những người đó chưa có dịp lắng nghe được trong không gian
tưởng chừng như vắng lặng lại có tiếng động của lòng đất và khúc ca của
cảnh vật đồng nội miền Nam. Phải có được dịp sống trên đồng ruộng miền
Nam mới hiểu được vì sao người nông dân Nam bộ lại gắn bó với ruộng đồng
sông Cửu như thế.
Một đêm ở vùng kinh xáng Bờ Bao, Triệu đã thức suốt đêm vì hôm đó trên
một cành gòn, một con chim vịt lạc đàn đã thỉnh thoảng cất tiếng kêu não
nuột suốt đêm. Có sống được trong tình huống đó mới thấm thía được câu
hát ru em của miền Nam:
“Chiều chiều chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ bạn, chín chiều ruột đau”
Nhưng rồi sau đó, Triệu lại cùng người chú trở lên Sài Gòn. Ngày 6 tháng
Tám 1945 Mỹ đã thả bom nguyên tử xuống Hiroshima. Ngày 9 tháng 8, một
trái bom nguyên tử khác lại được thả xuống Nagasaki. Ngày 10-8-1945,
Nhật hoàng Hirohito nhờ Thụy Ðiển đứng ra làm trung gian xin ngưng bắn
và sau đó, ngày 15-8-1945 tuyên bố đầu hàng Ðồng Minh, vô điều kiện.
Ðến lúc đó, ngày 14-8 Nhật mới tuyên bố trả Nam bộ cho triều đình Huế và
Bảo Ðại đã bổ nhiệm Nguyễn Văn Sâm làm Khâm sai Nam kỳ. Chánh phủ Trần
Trọng Kim được thành lập ngày 17-4-1945 trong bối cảnh Ðồng Minh đang
chiến thắng ở Âu Châu, đã phải đệ đơn từ chức ngày 5-8-1945, không đầy
sáu tháng sau ngày ra mắt! Vua Bảo Ðại đã chấp thuận cho Nội Các từ chức
nhưng đã ủy nhiệm cho Trần Trọng Kim lập Nội các mới. Trong thời gian
ngắn ngủi cầm quyền, chánh phủ Trần Trọng Kim đã phải đương đầu lo giải
quyết nạn đói đang hoành hành trên đất Bắc trong khi phải đặt cơ sở cho
một nền hành chánh mới. Một thành công đáng ghi nhớ là Ban Cải cách Giáo
dục, dưới sự hướng dẫn của Hoàng Xuân Hãn đã cho ra đời chương trình
“Ban Trung đẳng 7 năm” được áp dụng sau này ở miền Nam.
Tin Nhật đầu hàng vô điều kiện Ðồng Minh ngày 15-8-1945 đã là khởi điểm cho những biến cố dồn dập ở Nam Bộ.
Các tổ chức chính trị miền Nam đã thỏa thuận thành lập “Mặt trận Quốc
gia Thống nhất”, theo đề nghị của Hồ Văn Ngà. Mặt trận gồm có: Việt Nam
Quốc gia Ðộc lập Ðảng, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Ðài, Tịnh độ Cư sĩ, Liên
đoàn Công chức, Thanh niên Tiền Phong, Nhóm Trí thức.Trụ sở đặt ở đường
Léon Combes.
Trong khi đó, ở Pháp, ngày 16-8-1945, sau khi được thông báo về sự đột
ngột đầu hàng của Nhật, tướng De Gaulle đã chỉ định Ðô đốc Thierry
d’Argenlieu, một linh mục, làm Toàn quyền Ðông Dương và tướng Leclerc
làm Tổng Tư lịnh Lục quân Ðông Dương.
Ngày 21 tháng 8, 1945, để chứng tỏ cho thế giới biết quyết tâm của dân
chúng Việt Nam không chấp nhận các mưu toan của Pháp định trở lại Ðông
Dương, Mặt trận Quốc gia Thống nhất đã tổ chức một cuộc biểu tình khổng
lồ có hơn 200 ngàn người, diễn hành trên khắp đường phố Sài Gòn.
Triệu vào lúc này đang cư ngụ ở Bà Chiểu, gần xóm Nhà Thờ, nên thường
sinh hoạt với Nguyễn Thanh Liêm, một bạn học cùng lớp ở Petrus Ký nhưng
là học sinh ngoại trú. Liêm người cao lớn, chạy bộ rất giỏi nhưng lại mê
thích đua xe đạp. Anh có một chiếc xe course để thi đua mà anh quý còn
hơn bạn gái. Mượn gì anh cũng có thể cho nhưng đừng hòng mượn xe của
anh. Liêm rủ Triệu tham dự các buổi nói chuyện tối của nhóm Việt Nam
Quốc Dân Ðảng của Nguyễn Hòa Hiệp, ở một căn phố đường Hàng Dừa. Triệu
không thích mấy, khi nghe những trình bày về các thuyết Tam Dân Chủ
Nghĩa, các quá trình tranh đấu của Ðảng... vì cũng đã có đọc và biết
thuyết này trong quá khứ. Liêm và Triệu đến tham dự vì chỉ muốn có cơ
hội được huấn luyện quân sự. Vào thời buổi đó, súng ống là vấn đề cấm
kỵ. Chỉ có những người có quốc tịch Pháp hoặc có địa vị đặc biệt mới
được sắm súng, mặc dầu chỉ là súng săn. Nay nước nhà kể như đã thâu hồi
được độc lập, lại có cơ hội được huấn luyện tháo gỡ, lau chùi, sử dụng
súng dài, súng ngắn, hỏi sao không mê thích được, nhất là đối với thanh
niên. Thường thì các lớp huấn luyện này chỉ học nhiều về lý thuyết. Thực
hành chỉ có lau chùi, tháo ráp vì có súng nhưng không có đạn! Triệu chỉ
được biết là súng được tịch thu khi các anh lớn được giao cho điều hành
bót Hàng Keo, Gia Ðịnh. Súng thì có nhưng Pháp đã dấu đi các đạn dược
nên chỉ lấy được rất ít, các anh cất giấu để sử dụng khi cần. Lựu đạn
cũng có nhưng lẽ tất nhiên đã được tháo kíp nổ và thuốc súng cũng đã
được trút hết ra khi đưa cho cầm thử để biết nặng nhẹ ra sao. Sau thời
kỳ huấn luyện, Triệu và Liêm được coi như đã gia nhập Dân Quốc Quân của
Nguyễn Hòa Hiệp, người chỉ huy đã được huấn luyện ở trường quân sự Hoàng
Phố bên Tàu. Triệu tham dự cuộc biểu tình trong đoàn Dân Quốc Quân và
rất hãnh diện được cấp cho một ca lô màu xanh dương đậm, có gắn một ngôi
sao đồng bóng chói. Ðồng phục là áo sơ mi trắng ngắn tay, quần sọt
xanh, trang bị tầm vong vạt nhọn như Thanh Niên Tiền Phong.
Trong buổi đi biểu tình hôm đó, chỉ có các toán quân Heiho của Cao Ðài
là các đơn vị diễn hành đẹp, có kỷ luật vì đã có dịp được huấn luyện
thành thục từ trước. Kế theo đó là các toán Thanh Niên Tiền Phong và Phụ
Nữ Tiền Phong. Các đơn vị TNTP tham dự diễn hành được tổ chức theo các
xóm, các vùng ngoại ô hay có khi tùy theo các công sở, tư sở, các xí
nghiệp như hỏa xa hay xe điện... Vì đều có mặc đồng phục và trang bị tầm
vong vạt nhọn, khẩu hiệu được tập hô to đồng đều, TNTP được đồng bào
chú ý và tán thưởng nhất. Dân Quốc Quân của Triệu tương đối cũng khá vì
phần đông là thanh niên các trường Trung học đã từng được huấn luyện thể
thao. Các toán dân quân Hòa Hảo, đặc biệt là các đơn vị Bảo An được Ông
Huỳnh Phú Sổ chỉ định thành lập, hai năm trước khi có Thanh Niên Tiền
Phong, vận đồng phục áo quần bà ba đen, đầu chít khăn màu dà, chơn đi
không, quần quấn xà cạp đen, trang bị giáo mác, mã tấu ...Các toán diễn
hành đi đứng tuy không nhịp nhàng nhưng được đồng bào hai bên đường rất
hoan nghinh vì khí phách hiên ngang trên gương mặt nông dân sạm nắng của
họ.
Trong thành phần tham dự cuộc biểu tình ngày 21 tháng 8, 1945 Triệu đã
thấy nhóm Ðệ Tứ cũng có diễn hành mặc dầu không phải là thành viên của
Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất của Hồ Văn Ngà. Lá cờ Tranh Ðấu của nhóm
với hình quả địa cầu có tia chớp như số 4 xẹt ngang thấy phấp phới trước
nhóm công nhân tập họp ở góc Massiges-Norodom. Bóng dáng các anh lớn
của nhóm rất ít thấy trong nhóm nhân ngày diễn hành này. Phần đông hình
như đang họp hành khẩn cấp ở trụ sở Lagrandière. Tạ Thu Thâu thì không
còn thấy đến tòa soạn nữa. Nghe bảo là Tạ Thu Thâu đã đi ra Bắc lo việc
cứu nạn đói nhưng cũng đi để biết thêm về tổ chức Việt Minh và đồng thời
lo tổ chức đảng Thợ thuyền.
Phan Văn Hùm đã nhận lời giao phó đi tiếp xúc với Việt Minh vì phần đông
các đại biểu đảng phái không biết Việt Minh là ai. Triệu nghe nói lúc
ấy chỉ có ông Huỳnh Phú Sổ, Phật giáo Hòa Hảo là có phát biểu như đùa:
“...thì Việt Minh có đâu đây, cần gì phải đi xa mà kiếm...”. Sau này khi
các sự việc khác xảy ra, nhiều người tự hỏi không biết lúc đó ông Huỳnh
Phú Sổ muốn nói Việt Minh đã có tiếp xúc với ông rồi, hoặc ông muốn ám
chỉ đến Trần Văn Giàu lúc đó đã tìm cách len lỏi xin vào Ðảng Quốc Gia
Ðộc Lập của HồVăn Ngà!
Ở Sài Gòn, ngoài đường phố đã bắt đầu thấy có nhiều tin tức về Việt
Minh. Trước cuộc biểu tình ngày 21 tháng 8-1945, trên các đường phố Sài
Gòn, Chợ Lớn đều được chăng la liệt những tấm biểu ngữ bằng vải trắng,
vải màu, hoặc các tấm dệt bằng lá buông vì là loại rẻ tiền, dễ kiếm. Lần
đầu tiên, Triệu được thấy các biểu ngữ chữ Nga vì có những chữ viết lộn
ngược, khác với cách viết thông thường, nhưng Triệu cũng thấy nhiều
biểu ngữ viết na ná giống tiếng Y Pha Nho nhưng không giống hẳn vì Triệu
có học qua ngôn ngữ này. Khi hỏi các anh lớn mới biết rằng đó là ngôn
ngữ Quốc tế Espéranto. Triệu cũng đã đọc được Anh ngữ nhưng là Anh ngữ
trong văn chương học ở trường. Lần này mới có dịp biết “đả đảo” phải nói
là “Down with...” vì đi đâu cũng thấy “Ðả đảo chế độ Thực dân”, “Down
with Colonialism”. Khẩu hiệu được treo nhiều nhất là “Independence or
Death”... Triệu có dịp về Biên Hòa cũng đã thấy nhiều banderole treo
ngang các đường phố, nhưng các biểu ngữ tiếng ngoại quốc chỉ có lẻ loi
vài tấm mà thôi. Sài Gòn lúc nào cũng là nơi quan trọng để thế giới chú
ý.
Ngoài các banderole treo ngang đường phố, rất nhiều bích chương, phần
đông được viết tay thay vì in, đã được dán trên các tường, nhiều nhất là
chung quanh chợ Bến Thành và các chợ khác như Tân Ðịnh, Bà Chiểu, Gò
Vấp... Ngay cả về các banderole, Triệu đã thấy có một thay đổi mới, vì
các banderole bằng vải đỏ viết chữ trắng hay chữ vàng đã thấy xuất hiện
nhiều hơn trước. Cách viết tiếng Nga cũng thấy đều đặn và không có vẻ xô
bồ, xô bộn như lúc đầu. Các bích chương đã bắt đầu thay đổi để đưa tin
tức hằng ngày cho dân chúng. Tin chiến hạm Richelieu của Pháp chở quân
trở lại Ðông Dương được phổ biến làm hoang mang dư luận. Rồi liền sau đó
vài hôm lại có tin: “Ba vạn Hồng quân Trung Quốc tại Hoa Nam sẵn sàng
bảo vệ, ngăn thực dân Pháp không cho tái chiếm Việt Nam”. Hôm khác lại
thấy có bích chương vẽ hình chiến hạm Richelieu với tin tức mới:“Chiến
hạm Richelieu đã được lịnh ngừng lại ở đảo Ceylan và sẽ quay trở về Pháp
vì ở Ðông Dương hiện có đảng từng chiến đấu cạnh Ðồng Minh nắm chánh
quyền”. Sau đó lại có tin đăng trên các báo: “Tướng De Gaulle đã gởi
điện tín cho người Pháp ở Ðông Dương, cho biết là không thể gởi một vị
Toàn Quyền qua Ðông Dương vì hiện có một chánh đảng Việt Nam đi đôi với
Ðồng Minh sẽ thay thế Pháp!”. Những tờ truyền đơn nhỏ đã được dán hay
phân phát từ các chợ để giới thiệu Mặt Trận Việt Minh là những đoàn thể
đã đứng trong hàng ngũ Ðồng Minh. Việt Minh sẽ dễ dàng “ăn nói” với Ðồng
Minh hơn những người đã giúp Nhật đánh Pháp vì Nhật nay là kẻ thù đã
đầu hàng. Ðừng để Ðồng Minh coi Việt Nam là bạn của Nhật. Khẩu hiệu:
“Chánh quyền về Việt Minh” đã được in và phát càng ngày càng nhiều.
Mỗi chiều, Triệu và các bạn cố bắt nghe tin tức thế giới, nhất là đài
Hoa Kỳ phát thanh từ Cựu Kim Sơn. Ðài này càng ngày càng được bắt dễ
dàng hơn sau khi Tướng Mac Arthur của Mỹ đã đổ bộ tái chiếm Phi Luật
Tuân. Chiếc Radio hiệu Phillips này được một nha sĩ tản cư về Sa Ðéc gởi
cho chú Triệu và là mối dây liên lạc của Triệu với thế giới bên ngoài
vì tin tức do hãng thông tin Domei của Nhật chỉ phổ biến các tin chiến
sự có lợi cho Nhật mà thôi. Mỗi lần nghe lời giới thiệu: “Ðây là đài
Phát thanh Cựu Kim Sơn...” tiếng nói đưa vọng về từ bên kia bờ Thái Bình
Dương, lòng Triệu thấy se thắt lại, nghĩ đến ngày nào đó, nước nhà thật
sự độc lập, xuất ngoại tự do, hy vọng mình sẽ có ngày đặt chân lên
nhiều viễn xứ... Triệu bắt được tin Việt Minh đã cướp chánh quyền ở Bắc.
Chánh phủ Nhân dân Lâm thời được thành lập với chủ tịch Hồ Chí Minh.
Các anh lớn xôn xao bàn tính, không biết Hồ Chí Minh là ai. Chú Sáu của
Triệu là người đã kiểm điểm lại các gương mặt đang hoạt động ở biên giới
Việt, Trung Hoa và cuối cùng đã đưa đến kết luận: Hồ Chí Minh, chính là
Nguyễn Ái Quốc, người mà chú đã giúp đưa đường dẫn lối lúc còn ở Xiêm.
Chỉ một ngày sau cuộc biểu tình 200.000 người do Mặt Trận Quốc Gia Thống
Nhất, Triệu được tin có một Ðại tá Pháp (Jean Cédille) nhảy dù xuống
Tây Ninh. Một người bạn của Triệu đã tham dự cuộc bắt sống viên Ðại tá
này sau một đêm mệt nhọc không ngủ nhưng đã phải giao người Pháp này cho
quân đội Nhật vì người Nhật đã ép buộc phải giao Jean Cédille cho họ!
Cũng trong ngày đó tức ngày 22 tháng 8, 1945 Triệu lại nghe được đài Cựu
Kim Sơn thông báo Hoàng Ðế Bảo Ðại tuyên bố thoái vị. Lễ Thoái vị đã
được cử hành hai ngày sau, ngày 24 tháng 8 tại Ngọ Môn. Kiếm và Ấn tỷ,
biểu hiệu triều đình Nguyễn, đã được giao lại cho Nguyễn Lương Bằng,
Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận.
Trần Ngươn Phiêu
No comments:
Post a Comment